Ngày 29/9, tại TP Hồ Chí Minh, Ban Kinh tế T.Ư, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh tổ chức Tọa đàm “Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045”, với sự tham gia trực tiếp và trực tuyến của 180 đại biểu là các nhà khoa học, nhà quản lý. PGS. TS. Nguyễn Hồng Quân, Viện Trưởng ICED đã tham gia phát biểu tham luận “Phát Triển Kinh Tế Tuần Hoàn Trong Nông Nghiệp Phục Vụ Phát Triển Bền Vững Đồng Bằng Sông Cửu Long” tại hội thảo (Xem cuối bài viết)
Các đồng chí Ủy viên T.Ư Đảng: TS Nguyễn Thành Phong, Phó Trưởng Ban Kinh tế T.Ư; PGS, TS Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; PGS, TS Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ (KH và CN) dự và chủ trì tọa đàm.
Hội thảo cũng có sự tham dự của Hội đồng Lý luận T.Ư, Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và đại diện Ngân hàng thế giới (WB).
Theo đồng chí Vũ Hải Quân, tọa đàm nhằm mục tiêu tổng kết thực tiễn từ các kết quả nghiên cứu khoa học trong khuôn khổ Chương trình KH và CN phục vụ sự phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ giai đoạn 2014 – 2020, góp phần làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn từ các nhiệm vụ đã triển khai tại vùng ĐBSCL, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển bền vững vùng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Tại tọa đàm, 20 tham luận của các đại biểu tập trung vào công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng chuỗi giá trị ngành và sản phẩm vùng ĐBSCL, những vấn đề đặt ra cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Kiến nghị những nhận thức, quan điểm cho các nội dung này cần được nhấn mạnh trong nghị quyết của Đảng.
Chỉ đạo tọa đàm, đồng chí Nguyễn Thành Phong, nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đặc biệt đến vùng ĐBSCL. Nhiều chủ trương chính sách, nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội của ĐBSCL, nhất là trong bối cảnh khu vực này đang và dự báo tiếp tục chịu tác động nặng nề nhất của suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu.
Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20/1/2003 của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2011-2020 là một trong những chủ trương lớn định hình chiến lược phát triển ĐBSCL của Đảng và Nhà nước.
Sau nhiều năm triển khai thực hiện, vùng ĐBSCL đã có sự phát triển rõ rệt, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là nông nghiệp và nông thôn. Kinh tế tăng trưởng khá với chất lượng được nâng lên, mô hình tăng trưởng chuyển đổi từ chiều rộng sang chiều sâu; cơ sở vật chất được tăng cường; diện mạo đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới; văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; mức sống của người dân được nâng lên; quốc phòng – an ninh được bảo đảm.
Tuy nhiên, ĐBSCL đang đối mặt với nhiều rủi ro từ suy thoái tài nguyên – môi trường và tác động của biến đổi khí hậu do đây là vùng đất rất mẫn cảm với sự thay đổi tự nhiên. Tài nguyên và môi trường vùng ĐBSCL đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Hoạt động tăng cường khai thác tài nguyên đất và nước tại các quốc gia thượng nguồn sông Mê Kông đã làm biến đổi sâu sắc chế độ dòng chảy và phù sa vùng ĐBSCL.
Tại tọa đàm, Bộ trưởng KH và CN Huỳnh Thành Đạt đã đề xuất một số định hướng hoạt động cần tập trung triển khai thực hiện tại vùng ĐBSCL, đó là:
Hình thành các dự án, nhiệm vụ KH và CN lớn mang tính liên ngành, liên vùng để nghiên cứu, giải quyết những vấn trọng tâm, bức thiết, có tính hệ thống của khu vực.
Xây dựng, lắp đặt hệ thống đo đạc, giám sát tự động các thông số về môi trường, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn,… để kịp thời thông tin, chủ động phục vụ công tác dự báo và triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với từng giai đoạn, nhất là ứng phó với tác động của thời tiết cực đoan; đẩy mạnh đầu tư ứng dụng và nhân rộng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đặc biệt vùng không chủ động nguồn nước, thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn sang phát triển nông nghiệp đa dạng (gồm thủy sản – cây ăn quả – lúa).
Tập trung nghiên cứu đề xuất giải pháp KH và CN bảo đảm nguồn nước lâu dài, cấp nước ngọt chủ động và hợp cho các vùng khan hiếm nước ven biển ĐBSCL (như xây dựng các hồ trữ nước ngọt từ hệ thống sông, kênh và khai thác nước ngầm tại các khu vực nguồn nước ngầm bảo đảm về chất lượng, trữ lượng với quy mô khác nhau; hệ thống khử nước mặn sử dụng năng lượng tái tạo,…).
Sớm đưa vào ứng dụng thực tiễn các kết quả thành công của các nhiệm vụ KH và CN về các giải pháp chống sạt lở bờ biển, bờ sông thuộc Chương trình KH và CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ. Chương trình cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp KH và CN có tính tổng thể (trong đó chú trọng bảo đảm an toàn hạ tầng thủy lợi vùng ĐBSCL trong điều kiện hạn mặn kéo dài).
Các tỉnh trong vùng ĐBSCL cần chú trọng đầu tư cho các trường đại học, viện nghiên cứu trong vùng để phát huy hiệu quả thế mạnh nghiên cứu, cùng đồng hành với các doanh nghiệp. Liên kết này dưới sự hỗ trợ của Nhà nước qua những cơ chế, chính sách vượt trội, phù hợp sẽ tạo ra năng lượng cộng hưởng lớn, tác động tích cực đến sự phát triển của vùng.
* Cùng ngày, Ban Kinh tế T.Ư, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cũng tổ chức Tọa đàm “Xây dựng chuỗi giá trị ngành và sản phẩm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045”.
Nguồn: https://nhandan.vn/moi-truong/bao-ve-moi-truong-va-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-vung-dong-bang-song-cuu-long-667221/
Slide trình bày tham luận của TS. nguyễn hồng quân tại hội thảo